Thẩm quyền của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện theo lựa chọn của nguyên đơn


18/02/2021 546 Lượt xem
ThS.NCS. NGUYỄN TRƯƠNG TÍN (GV. Khoa Luật Dân sự - Trường Đại học Luật TP. HCM) - Trong phạm vi bài bình luận này, tác giả đi sâu trao đổi một số nội dung pháp lý liên quan đến những yếu tố (điều kiện) xác định thẩm quyền của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện, mối quan hệ giữa thẩm quyền của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện với thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn cư trú, có trụ sở.

Công ty G có trụ sở tại Quận 1, Tp Hồ Chí Minh. Ông K có địa chỉ cư trú tại quận Bình Thạnh, Tp Hồ Chí Minh. Năm 2004, Công ty G và ông K ký kết hai Hợp đồng hợp tác đầu tư để thực hiện dự án tại quận Dương Kinh, Tp Hải Phòng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có xảy ra tranh chấp nên ông K đã khởi kiện Công ty G ra TAND quận Dương Kinh, Tp Hải Phòng để yêu cầu Công ty G hoàn trả số tiền đã góp vốn.

Khi giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án nhân dân cấp cao (TANDCC) tại Hà Nội đã xét rằng: “Việc Công ty G và ông K ký kết, thực hiện Hợp đồng số 01 và số 02 ngày 05-10-2004 là hợp pháp. Năm 2013, ông K khởi kiện yêu cầu Công ty G hoàn trả số tiền góp vốn theo 2 hợp đồng nêu trên, do đó quan hệ pháp luật có tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 29 BLTTDS năm 2011. Do 2 hợp đồng hợp tác đầu tư nêu trên được thực hiện tại phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, TAND quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 và điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2011” [1].

BÌNH LUẬN

Thẩm quyền giải quyết của Tòa án là một trong những nội dung quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào thẩm quyền, “Tòa án xác định phạm vi quyền hạn của mình trong việc tiếp nhận, giải quyết những vụ việc dân sự do các chủ thể có quyền yêu cầu. Mặt khác, thẩm quyền của Tòa án là căn cứ pháp lý để cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền đòi hỏi Tòa án bảo vệ quyền khi bị xâm phạm[2].

Ngoài việc quy định thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc, theo cấp Tòa án, theo lãnh thổ thì pháp luật tố tụng dân sự còn quy định thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Theo đó, nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động nếu thỏa mãn điều kiện do pháp luật quy định.

Trong nhiều trường hợp, các bên có xác lập quan hệ hợp đồng và sau đó có tranh chấp, việc xác định Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên có một ý nghĩa quan trọng đối với chủ thể khởi kiện. Bởi lẽ, xác định Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết sẽ chi phối, ảnh hưởng lớn đến việc tham gia tranh tụng của nguyên đơn, đến việc thu thập chứng cứ, cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình cũng như tạo ra nhiều lợi thế khác cho nguyên đơn trong quá trình tranh tụng… Do vậy, điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) năm 2015 (điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2004) có quy định: “Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong trường hợp: Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”.

Trong phạm vi bài bình luận này, tác giả sẽ đi sâu trao đổi một số nội dung pháp lý liên quan đến những yếu tố (điều kiện) xác định thẩm quyền của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện, mối quan hệ giữa thẩm quyền của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện với thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn cư trú, có trụ sở trong một Quyết định giám đốc thẩm của TANDCC đã được đề cập ở phần trên.

1.Điều kiện để Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết

1.1. Tồn tại hợp đồng và có tranh chấp về hợp đồng giữa các bên

Theo điểm g khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015 (điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011), “nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong trường hợp nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”. Theo đó, việc lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết là đặc quyền riêng có thuộc về nguyên đơn, không thuộc về bị đơn cũng như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Với nội dung nêu trên, điều kiện đầu tiên để xác định thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn là trước đó, giữa các bên (nguyên đơn và bị đơn) đã xác lập quan hệ hợp đồng[3] và tranh chấp giữa các bên là tranh chấp về quan hệ hợp đồng đã tồn tại trước đó. Điều này có nghĩa rằng, nếu tranh chấp giữa các bên không phải là tranh chấp về hợp đồng (như tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về thừa kế) thì nguyên đơn nên tìm cơ sở pháp lý khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.

Theo Quyết định giám đốc thẩm, TANDCC đã không đồng ý với Tòa án cấp dưới khi cho rằng: “Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đòi khoản tiền lãi của số tiền 14.244.000 đồng: Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là Tranh chấp kiện đòi tài sản (tiền góp vốn) đầu tư xây dựng (…) là không đúng. (…), bởi lẽ quan hệ pháp luật có tranh chấp là Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư”. Với nội dung vừa đề cập, TANDCC cho rằng Tòa án cấp dưới xác định không đúng quan hệ pháp luật có tranh chấp. Và về mặt logic, nếu không có quan hệ hợp đồng trước đó thì không có tranh chấp về hợp đồng, tiếp nữa là nếu không có quan hệ hợp đồng thì không có Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện và cũng không đặt ra vấn đề thẩm quyền của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết.

Cũng theo Quyết định giám đốc thẩm, TANDCC đã xác định: “Ngày 5-10-2004 Công ty G ký 2 Hợp đồng hợp tác đầu tư số 1 và 2 với ông K để chấp nhận việc ông K góp vốn đầu tư…”, rồi tiếp tục kết luận: “Việc Công ty G và ông K ký kết 2 hợp đồng này là trên cơ sở thỏa thuận tại cuộc họp Hội đồng cổ đông ngày 16-8-2004”, và sau đó đã xét rằng: “Việc Công ty G và ông K ký kết, thực hiện Hợp đồng số 1 và số 2 ngày 5-10-2004 là hợp pháp. Năm 2013, ông K khởi kiện yêu cầu Công ty G hoàn trả số tiền góp vốn theo 2 hợp đồng nêu trên, do đó quan hệ pháp luật có tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại điểm m khoản 1 Điều 29 BLTTDS năm 2011[4].

Với nội dung nhận định nêu trên, TANDCC đã khẳng định giữa nguyên đơn và bị đơn (ông K và Công ty G) có xác lập quan hệ “Hợp đồng hợp tác số 1 và 2” trước đó, và TANDCC cũng đã kết luận tranh chấp giữa các bên là “Tranh chấp Hợp đồng hợp tác đầu tư”, loại tranh chấp về kinh doanh, thương mại theo điểm m khoản 1 Điều 29 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Do vậy, theo quan điểm của chúng tôi, TANDCC đã thuyết phục khi đề cập đến điều kiện thứ nhất để xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện, cụ thể điều kiện là: tồn tại quan hệ hợp đồng và có tranh chấp về hợp đồng giữa các bên.

1.2. Nơi hợp đồng được thực hiện là nơi có trụ sở Tòa án giải quyết

Theo điểm g khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015 (điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011), “nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”. Điều này có nghĩa rằng, điều kiện thứ hai để xác định thẩm quyền thuộc về Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015 nêu trên là có sự trùng khớp (cùng/trùng nhau) về địa điểm: nơi hợp đồng được thực hiện cũng chính là nơi có trụ sở Tòa án mà nguyên đơn yêu cầu giải quyết.

Theo chúng tôi, “nơi hợp đồng được thực hiện” được đề cập ở đây chính là “địa điểm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng”. Theo thỏa thuận hoặc (và) theo pháp luật, hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ và thông thường trong một hợp đồng, có nhiều nghĩa vụ được phát sinh. Ở nhiều trường hợp, hợp đồng có nhiều địa điểm thực hiện nghĩa vụ. Trong khi đó, điểm g khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015 (g khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011) chỉ quy định “Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện” chứ không quy định Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện “toàn bộ”, hay Tòa án nơi “toàn bộ” hợp đồng được thực hiện, hoặc Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện “chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền, thực hiện công việc…”, hoặc Tòa án nơi “phần lớn hợp đồng” được thực hiện… Do vậy, chỉ cần xác định được một địa điểm nơi hợp đồng được thực hiện là có thể xác định được Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Với hướng phân tích này, có khả năng hợp đồng được thực hiện ở nhiều địa điểm khác nhau nên nguyên đơn có thể cân nhắc lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện tại một trong các địa điểm đó giải quyết để có lợi nhất cho mình.

Nơi hợp đồng được thực hiện có phạm vi như thế nào trong mối quan hệ với Tòa án có thẩm quyển giải quyết? Dưới góc độ pháp luật và thực tiễn, nơi hợp đồng được thực hiện ở đây được xem xét trong phạm vi rộng và đó chính là nơi của một đơn vị hành chính cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh), hoặc đơn vị hành chính cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Nơi hợp đồng được thực hiện theo phạm vi đơn vị hành chính cấp huyện hay cấp tỉnh là tùy thuộc vào từng vụ việc cụ thể (ví dụ đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp ở nước ngoài thì tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh theo khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2015) mà nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện đến Tòa án cấp huyện[5] hay Tòa án cấp tỉnh[6] để yêu cầu giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm[7].

Trở lại với Quyết định giám đốc thẩm, TANDCC tại Hà Nội đã xác định rằng: “Đối với hợp đồng hợp tác đầu tư số 1 và số 2 ngày 5-10-2004: Mục đích của hợp đồng là cùng đầu tư vốn xây dựng Khu nhà ở Anh Dũng V”“sau khi ký hợp đồng, ông K đã góp vốn đầu tư theo giai đoạn được quy định tại Điều 3 Hợp đồng”, và tiếp đến kết luận rằng: “Thực tế ông K không được tham gia quản lý vốn trong quá trình thực hiện hợp đồng, trong khi Công ty G không chứng minh được và cũng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh về kết quả hoạt động kinh doanh trong quá trình thực hiện Dự án xây dựng Khu nhà ở Anh Dũng V”. Cũng theo thông tin trong Quyết định giám đốc thẩm thì Dự án xây dựng Khu nhà ở Anh Dũng V tọa lạc trên địa bàn phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Như vậy, chúng ta có đầy đủ cơ sở để kết luận rằng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng là nơi (hoặc là một trong những nơi) hợp đồng hợp tác giữa các bên (nguyên đơn và bị đơn) được thực hiện.

Tranh chấp giữa ông K và Công ty G là “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư”, là tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện. Theo Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận, TANDCC tại Hà Nội đã xét rằng: “Do 2 hợp đồng hợp tác đầu tư nêu trên được thực hiện tại phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, TAND quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 và điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2011”. Theo quan điểm của chúng tôi, nhận định trong Quyết định giám đốc thẩm là thuyết phục khi Tòa án cấp cao đã xác định điều kiện thứ hai là có sự trùng khớp (cùng/trùng nhau) về địa điểm: nơi hợp đồng được thực hiện cũng chính là nơi có trụ sở Tòa án giải quyết.

2.Mối quan hệ với thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn cư trú, có trụ sở

2.1. Tòa án nơi bị đơn cư trú, có trụ sở có thẩm quyền giải quyết nếu không có sự lựa chọn của nguyên đơn

Trong vụ việc đang được bình luận, Công ty G có trụ sở tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; còn ông K có địa chỉ cư trú tại quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Giữa Công ty G và ông K có quan hệ hợp đồng hợp tác đầu tư trước đó và giữa các bên có xảy ra tranh chấp hợp đồng hợp tác nêu trên.

Về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015[8] quy định: Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định: Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”.

Dựa vào tình tiết của vụ việc đang được bình luận và dựa vào nội dung pháp lý vừa đề cập, nếu căn cứ thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ thì tranh chấp giữa Công ty G với ông K phải được giải quyết tại Thành phố Hồ Chí Minh. Cụ thể, nếu Công ty G thực hiện quyền khởi kiện tranh chấp hợp đồng với ông K thì TAND quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh là Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm; còn nếu ông K thực hiện quyền khởi kiện tranh chấp hợp đồng với Công ty G thì TAND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

Với hướng phân tích vừa nêu, câu hỏi đặt ra là sao TAND quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng không có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tranh chấp hợp đồng giữa ông K và Công ty G, mà Tòa án ở tại Thành phố Hồ Chí Minh mới có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng theo thủ tục sơ thẩm?

Câu trả lời ở đây là thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn cư trú (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là tổ chức) là thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Điều này có nghĩa rằng, bình thường nếu nguyên đơn không sử dụng đặc quyền riêng có của mình do pháp luật tố tụng dân sự quy định trong việc lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết thì mặc định, Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo thủ tục sơ thẩm là Tòa án nơi bị đơn cư trú (nếu bị đơn là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là tổ chức).

2.2. Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện có thẩm quyền giải quyết nếu có sự lựa chọn của nguyên đơn

Sau khi xác định đầy đủ hai điều kiện là có sự tồn tại hợp đồng, có tranh chấp về hợp đồng giữa các bên (điều kiện thứ nhất), và có sự trùng khớp (cùng/trùng nhau) về địa điểm là nơi hợp đồng được thực hiện với nơi có trụ sở Tòa án giải quyết (điều kiện thứ hai) thì chúng ta cũng chưa kết luận được Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện là Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, nếu nguyên đơn không sử dụng đặc quyền riêng có của mình, tức nguyên đơn không thực hiện quyền lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết thì cũng không phát sinh việc giải quyết vụ án của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện.

Như đã đề cập, nếu nguyên đơn không thực hiện quyền lựa chọn Tòa án theo điểm g khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015 (Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết) thì mặc định, thẩm quyền của Tòa án được xác định theo lãnh thổ, tức Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc có trụ sở là Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Khi các bên có quan hệ hợp đồng và có tranh chấp về hợp đồng, cộng với nơi cư trú hay trụ sở của bị đơn là khác với nơi hợp đồng được thực hiện thì lúc này, nguyên đơn có thể: hoặc là khởi kiện bị đơn ra Tòa án nơi bị đơn cư trú (nếu bị đơn là cá nhân), hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu bị đơn là tổ chức) để yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục sơ thẩm; hoặc là khởi kiện bị đơn đến Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm. Điều này có nghĩa rằng, nguyên đơn đứng trước sự lựa chọn để quyết định Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết vụ án. Trường hợp nguyên đơn lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết thì phải tôn trọng và thực hiện theo quyền định đoạt của nguyên đơn.[9]

Trong Kháng nghị của mình (theo Quyết định giám đốc thẩm), Viện trưởng VKSNDTC đã đề nghị hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm để “giao hồ sơ vụ án cho TAND quận Dương Kinh, thành phố Hài Phòng giải quyết lại, xử lý đơn khởi kiện của nguyên đơn theo đúng quy định của pháp luật”. Với hướng đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm phải “xử lý đơn khởi kiện của nguyên đơn theo đúng quy định của pháp luật” cho phép chúng ta suy luận là Viện trưởng VKSNDTC đã đề nghị TAND quận Dương Kinh, thành phố Hài Phòng (nếu hồ sơ được giao lại để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm sau khi bản sơ thẩm và phúc thẩm bị hủy) phải “xử lý đơn khởi kiện của nguyên đơn” do liên quan đến vấn đề về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ. Điều này có nghĩa rằng, dường như Viện trưởng VKSNDTC đã theo hướng xác định yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.

Về phần mình trong Quyết định giám đốc thẩm, TANDCC tại Hà Nội không nhận định trực tiếp về việc nguyên đơn đã thực hiện quyền lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết. Đây là điểm chưa hoàn toàn thuyết phục của Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận. Tuy nhiên, thông qua nhận định của TANDCC với nội dung: “Do 2 hợp đồng hợp tác đầu tư nêu trên được thực hiện tại phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, TAND quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 33 và điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2011” cho phép chúng ta rút ra kết luận là nguyên đơn đã thực hiện quyền lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết. Bởi lẽ, điểm g khoản 1 Điều 36 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 (nay là điểm g khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015) quy định: “Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong trường hợp: Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”.

Theo quan điểm của chúng tôi, Quyết định giám đốc thẩm đang được bình luận sẽ thuyết phục hơn nếu TANDCC tại Hà Nội có nội dung nhận định: TAND quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng giải quyết là đúng thẩm quyền, bởi lẽ khi khởi kiện, nguyên đơn (ông K) đã thực hiện quyền lựa chọn TAND quận Dương Kinh (Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện) giải quyết và trong trường hợp này, thẩm quyền giải quyết của TAND Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (Tòa án nơi bị đơn là Công ty G có trụ sở) đã được loại trừ nên kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC đối với việc “xử lý đơn khởi kiện của nguyên đơn” về thẩm quyền giải quyết của Tòa án là không có cơ sở.

KẾT LUẬN

Quy định về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn nói chung, Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện nói riêng là cơ sở pháp lý quan trọng, tạo ra sự thuận lợi cho nguyên đơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án để yêu cầu giải quyết vụ án cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như thế mạnh của mình. Với đặc quyền này, nguyên đơn đã tạo ra ưu thế hơn so với bị đơn, người liên quan trong việc thực hiện quyền khởi kiện và các quyền khác liên quan đến thu thập chứng cứ, cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình cũng như tạo lợi thế trong việc đi lại để tham gia tranh tụng…

Thông qua Quyết định giám đốc thẩm được bình luận, chúng tôi cũng đã trình bày các yếu tố (điều kiện) xác định thẩm quyền của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện, mối quan hệ giữa thẩm quyền của Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện với thẩm quyền của Tòa án nơi bị đơn cư trú, có trụ sở trong một vụ việc cụ thể. Với những nội dung pháp lý được bình luận, người đọc có thể hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa đối với quy định về thẩm quyền của Tòa án thông qua sự lựa chọn của nguyên đơn, những yếu tố xác định thẩm quyền của Tòa án cũng như việc sử dụng, thực hiện quyền của nguyên đơn trong việc lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết trên thực tế.

 HĐXX một vụ án dân sự tại TAND tỉnh An Giang – Ảnh: Duy Bình

[1] Quyết định số 05/2019/KDTM-GĐT ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

[2] Xem thêm Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 108.

[3] Theo Điều 385 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Trước đây, khái niệm vừa nêu cũng được quy định gần như tượng tự tại Điều 388 BLDS năm 2005.

[4] Theo chúng tôi, Tòa án cấp giám đốc thẩm đã nêu cơ sở pháp lý “BLTTDS năm 2011” là chưa thật sự chuẩn xác, mà chuẩn xác phải là “BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011”.

[5] Xem thêm Điều 35 BLTTDS năm 2015 về Thẩm quyền của TAND cấp huyện.

[6] Xem thêm Điều 37 BLTTDS năm 2015 về Thẩm quyền của TAND cấp tỉnh.

[7] Trước đây, Điều 8 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP có nội dung: “Khi xem xét yêu cầu của nguyên đơn lựa chọn Toà án giải quyết vụ việc dân sự, thì ngoài việc phải thực hiện đúng quy định tại Điều 33 và Điều 34 của BLTTDS về thẩm quyền của các cấp Toà án…”. Điều 33 vừa nêu quy định thẩm quyền của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Điều 34 vừa nêu quy định thẩm quyền của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

[8] Trước đây, điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 cũng có quy định tương tự: “Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau: Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này”.

[9] Xem Thông báo số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 về việc Thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: “Về nguyên tắc chung, thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 39 của BLTTDS năm 2015. Đối với tranh chấp thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 40 của Bộ luật này thì nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS năm 2015 thì: “Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này”. Điểm g khoản 1 Điều 40 của BLTTDS năm 2015 quy định: “Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết”. Căn cứ các quy định nêu trên, Tòa án nơi bị đơn có trụ sở và Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện đều có thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, trường hợp nguyên đơn lựa chọn Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết tranh chấp thì tôn trọng và thực hiện theo quyền định đoạt của nguyên đơn”.

Theo Tapchitoaan

Tin tức liên quan


CÔNG TY LUẬT TNHH TGT

Văn phòng Hà Nội: Tầng 6, Tòa nhà 252 Hoàng Quốc Việt, Quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam
Văn phòng Hồ Chí Minh: Sảnh Venice 3, New City Thủ Thiêm, Số 17 Mai Chí Thọ, Phường An Khánh, TP. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam

ĐT: (+84)-243-7558-222 | (+84)-903-204-333

 Email: thetg@tgt-partners.vn

Liên hệHồ sơ năng lực